Theo ông Trần Công Phàn (Phó Viện trưởng VKSND Tối cao), hiện nay có 22 tội danh có khung hình phạt cao nhất là tử hình. Qua tổng kết việc thi hành BLHS cho thấy có một số tội rất ít khi tòa xử phạt đến tử hình, thậm chí có tội chưa bao giờ tòa áp dụng mức hình phạt cao nhất này cả.





Nên bỏ hình phạt tử hình trong tội cướp tài sản? Trong ảnh: Một bị cáo bị TAND TP.HCM xử lưu động tuyên án tử hình vì giết người, cướp tài sản. Ảnh: T.TÙNG


Nhiều tội tử hình không cần thiết


Chẳng hạn như nhóm tội về xâm phạm an ninh quốc gia (tội bạo loạn, tội hoạt động phỉ, tội phản bội Tổ quốc…). Nguyên nhân là do chế độ chính trị của nước ta tương đối ổn định. Cùng với chính sách nhân đạo và xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta cũng có những biện pháp chống lại âm mưu diễn biến hòa bình, nói xấu chế độ nên các hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia ít xảy ra hoặc tính chất, mức độ,
hậu quả thường chưa đến mức phải phạt tử hình.


Tương tự, với các tội thông thường còn lại như cướp tài sản, buôn lậu…, tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội cũng thường chưa đến mức phải phạt tử hình. Từ đó, ông Phàn cho rằng lần sửa đổi BLHS này nên tính toán lại theo hướng giảm bớt một số loại tội áp dụng hình phạt tử hình.


PGS-TS Dương Tuyết Miên (Trường ĐH Luật Hà Nội) cũng phân tích: Bỏ hẳn hình phạt tử hình là không nên nhưng phải giảm bớt, chỉ áp dụng trong phạm vi hẹp với một số loại tội danh nhất định. Một số tội chỉ cần áp dụng hình phạt cao nhất là tù chung thân để thay tử hình cũng vẫn có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm. Chẳng hạn như tội phá hủy các công trình phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia; tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh.


Ngoài ra, bà Miên còn đề nghị ngoài các đối tượng được miễn hình phạt tử hình (trẻ em, phụ nữ có thai, phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi) thì BLHS nên thêm một đối tượng khác là người già từ 70 tuổi trở lên. Bởi lẽ họ là những người tuổi cao sức yếu, cuộc sống không còn dài lâu, được Nhà nước chăm sóc, bảo vệ đặc biệt. Xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo thì chỉ nên quy định họ chịu mức án cao
nhất là tù chung thân.


Bỏ các tội hiếm gặp


Ngoài ra, nhiều ý kiến đề nghị nên bỏ hẳn một số tội vì rất ít khi xảy ra và nếu có xảy ra thì cũng không đáng để xử lý hình sự do tính chất nguy hiểm cho xã hội không còn.


TS Lê Thành Dương (Viện trưởng Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao) liệt kê một số tội lâu nay chưa từng xử lý hình sự như tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, người có công nuôi dưỡng mình; tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng; tội báo cáo sai trong quản lý kinh tế; tội quảng cáo gian dối…


Theo ông Dương, có nhiều tội danh khác ít được áp dụng vì nó liên quan đến vấn đề tình cảm, phong tục. Có nhiều hành vi đã ăn sâu vào tiềm thức của con người từ xã hội cũ để lại, người dân cho đó là bình thường mà luật coi là tội phạm. Chẳng hạn tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ. BLHS quy định là tội phạm nhưng lại không có văn bản nào hướng dẫn cưỡng ép, cản trở đến cỡ nào thì mới xử lý hình sự.


Ông Dương còn đề cập đến một tội mà thực tiễn áp dụng có không ít trường hợp gây nhiều tranh cãi, băn khoăn là tội giao cấu với trẻ em. Theo ông, có khi ở vùng quê xa xôi, hai người thương yêu nhau, về sống với nhau, đã có mấy con chung. Bỗng dưng cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện lúc chung sống, người vợ chưa đủ tuổi thành niên nên xử lý hình sự người chồng với tình tiết tăng nặng là phạm tội nhiều lần
thì có đáng không?


Nên mạnh dạn


Theo bà Lê Thị Nga (Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội), nên sửa chính sách hình sự đầu vào của BLHS cho chặt chẽ, loại nào nên xử tù thì quy định, loại nào không cần thiết thì loại bỏ. Kể cả các vấn đề dân sự trong vụ án hình sự cũng cần chú ý “siết” lại cho chặt.


“Thực tế hằng năm chúng ta thường xử tù rất nhiều bị can, bị cáo, có cả những người không đáng, rồi đến hẹn lại đưa danh sách đề nghị giảm án, tha tù trước thời hạn, đặc xá hàng loạt. Như vậy vừa mất công sức của các cơ quan tố tụng, vừa tốn tiền bạc của Nhà nước và tạo môi trường tiêu cực trong việc giảm án, đặc xá” - bà Nga nói.


Cũng theo bà Nga, thực tiễn áp dụng Điều 25 BLHS (về miễn trách nhiệm hình sự) cũng có vấn đề. Thực tế cơ quan tố tụng chỉ áp dụng chính xác trong một số ít trường hợp, còn phần lớn là bị lợi dụng để tha miễn hoặc để né việc bồi thường oan.






Chia tù chung thân thành hai loại?


Có ý kiến cho rằng BLHS quy định về hình phạt tù chung thân (với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng chưa đến mức tử hình) là cần thiết nhưng về bản chất nó chẳng khác gì tù có thời hạn. Bởi lẽ do chính sách nhân đạo của Nhà nước nên tù chung thân là tù không thời hạn nhưng trên thực tế ít có phạm nhân nào phải thụ án suốt đời.


Do đó, để tránh cách hiểu đánh đồng, cào bằng, nên sửa quy định về tù chung thân thành hai loại: có thể được giảm án và không được giảm án. Người không được giảm án thì mức độ, tính chất hành vi phạm tội nguy hiểm hơn người có thể được giảm án. Nếu quy định rạch ròi như vậy thì trường hợp bị xử tử hình có thể được xét ân giảm xuống tù chung thân không giảm án (tức tù suốt đời). Lúc này, BLHS sẽ vừa thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật vừa có tính nhân đạo cao.


***


Sửa nhóm tội về tham nhũng


Việc hình sự hóa các hành vi tham nhũng, theo tôi nhìn chung BLHS hiện hành đã đáp ứng được yêu cầu của công ước quốc tế TOC mà chúng ta đã ký kết. Tuy nhiên, một số quy định về tội đưa, nhận và môi giới hối lộ còn hạn chế. Chẳng hạn khái niệm “của hối lộ”, BLHS cho rằng chỉ là tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác, trong khi khái niệm này theo Điều 8 công ước TOC có nội hàm rộng hơn, gồm cả lợi ích vật chất và phi vật chất. Thứ hai, BLHS chưa mở rộng phạm vi điều chỉnh của tội
tham ô tài sản sang lĩnh vực tư. Tiếp đó, BLHS chưa hình sự hóa hành vi làm giàu bất chính với ý nghĩa như một biện pháp đột phá trong phòng, chống tham nhũng được thể hiện dưới hình thức thu hồi triệt để tài sản tham nhũng.


TS TRẦN VĂN DŨNG, Vụ Pháp luật Hình sự - Hành chính (Bộ Tư pháp)


Khó xử tội đào ngũ


Cần sửa quy định về tội đào ngũ (Điều 325 BLHS) vì không khả thi, làm giảm kỷ luật và sức chiến đấu của quân đội. Điều luật này quy định người nào rời bỏ hàng ngũ quân đội nhằm trốn tránh nghĩa vụ, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc trong thời chiến thì mới có thể xử lý hình sự. Vì vậy với các quân nhân lần đầu rời hàng ngũ rồi bỏ đi luôn, không quay về đơn vị thì các cơ quan tố tụng trong quân đội bó tay.


Ông NGUYỄN THÁI BÌNH, Cục Điều tra hình sự (Bộ Quốc phòng)






Theo Pháp luật TPHCM






Theo nguoiduatin.vn